Chân lý, giả định, hay các nguyên lý cơ bản đều cần đề làm chứng cớ chứng minh những nhận định khác. Thuật ngữ tạo nên nhận định. Ngoài những loại sách trên, còn có một loại sách thực hành nữa.
Từ đó chỉ ra những suy nghĩ, hành động con người phải thực hiện để có được hạnh phúc, hoặc tránh sự bất hạnh. Nhưng để biết được sự thật, chúng ta lại phải xem xét câu chuyện đó từ nhiều góc nhìn khác nhau. Những cuốn sách như vậy thường khá hay mặc dù không có độ tin cậy cao như tiểu sử cuối cùng.
Nói cách khác, lời giải thích một hiện thực hay một phần của nó, không phải là dữ kiện trừ phi phần đông nhất trí điều đó là đúng. Hơn thế, nó gắn kết giai đoạn đầu của quá trình đọc phân tích (vạch ra cấu trúc sách) và giai đoạn thứ hai (làm sáng tỏ nội dung). Do đó, các cấp độ của việc đọc mang tính tích luỹ.
Các nghĩa có mối liên hệ nhất định với nhau. Nếu môi trường chúng ta đang sống rơi vào trạng thái khủng hoảng thì tất yếu chúng ta cũng bị liên quan. Cả suy nghĩ và hành động thực tiễn đều không phải là việc của trí óc mà cần có sự tham gia của cảm xúc.
Nó có thể đưa ra các nguyên tắc hay yếu tố đặc trưng làm nền tảng cho các quy tắc, khiến chúng dễ hiểu. Độc giả cũng vậy, khi đã đọc xong tác phẩm, họ sẽ hiểu được mối quan hệ giữa các sự kiện và trình tự hành động của nhân vật. Có ít nhất năm cách trình bày phương pháp triết học được các nhà triết học vĩ đại của phương Tây sử dụng.
Khi đọc các sự kiện thời sự, chúng ta cũng gặp phải một vấn đề giống như khi đọc về lịch sử. Những quy tắc này đã rất quen thuộc và phải được áp dụng chặt chẽ hơn ở đây. Ví dụ, kinh nghiệm đặc biệt có từ việc tiến hành thí nghiệm trong phòng thí nghiệm; hoặc một nhà nhân loại học đi tìm hiểu những cư dân bản địa tại một vùng lãnh thổ chưa được khai phá và đã thu được những kinh nghiệm mà bình thường người khác không thể có hoặc rất ít người có được; hoặc kinh nghiệm của một phi hành gia trên mặt trăng, trên Sao Mộc…
Một phiên tòa thường quan tâm đến những sự kiện xảy ra gần với hiện tại và thường có sự hiện diện của nhân chứng sống. Nếu khoa học xã hội luôn được pha trộn y hệt như vậy thì chúng ta cũng sẽ quen với nó như đã quen với lịch sử. Đồng thời nó phải có thêm phần dàn ý chính là mục lục.
Những cản trở trong quá trình hiểu một cuốm sách khó không đơn thuần là vấn đề sinh lý hay tâm lý. Bạn chỉ sở hữu nó hoàn toàn khi bạn biến nó thành một phần của bạn và bạn thành một phần của nó - tức là bạn phải viết vào trong sách. Một bộ phận các từ dùng để diễn tả những ý tưởng chính, những khái niệm cốt yếu mà tác giả muốn đề cập đến sẽ góp phần tạo nên hệ thống từ vựng riêng của tác giả đó.
Điều này đúng với bất kỳ cuốn sách nào, đặc biệt là với các tác phẩm triết học. Hệ thống thuật ngữ của tác giả phải được xem là bất khả xâm phạm vì ta không nên đọc các cuốn sấch mà không gắn chúng với văn cảnh. Rõ ràng đây là vấn đề về tâm lý và nó có tác động đến hiệu quả của việc đọc một cuốn sách thực hành.
Ví dụ, trong cuốn sách này, từ reading (đọc) đã được sử dụng với nhiều nghĩa khác nhau: (1) đọc để giải trí, (2) đọc để lấy thông tin, (3) đọc để hiểu biết. Vì thế, các nguyên tắc chủ đạo về logic được diễn giải trong tập sách Organon (Công cụ) cũng được đề cập trong cuốn Physics (Vật lý). Nhưng bạn có thể thấy băn khoăn làm sao để tìm ra các nghĩa mà tác giả sử dụng? Câu trả lời là bạn phải xác định nghĩa của từ bạn chưa hiểu dựa trên ý nghĩa của tất cả các từ bạn đã hiểu xuất hiện trong cùng ngữ cảnh.